Hạn chế bệnh bạc lá, đốm sọc vi khuẩn trong vụ mùa

Đại đa số các giống lúa thuộc khu vực đồng bằng sông Hồng đang gieo cấy phổ biến hiện nay đều có nguồn gốc từ Trung Quốc (không mang gen kháng vi khuẩn bạc lá).


Do vậy, khi phát triển các giống lúa này trong điều kiện vụ mùa ở các tỉnh phía Bắc nước ta thì hầu hết bị nhiễm bạc lá vi khuẩn, gây tổn hại không nhỏ đến năng suất và chất lượng lúa mùa.

Bệnh bạc lá lúa là do các chủng vi khuẩn Xanthomonas gây nên. Do vậy, nếu cây lúa đã bị nhiễm bệnh thì khó chữa khỏi. Môi trường thuận lợi cho vi khuẩn tấn công vào cây lúa do 2 nguyên nhân chính: Nội tại cây lúa (thân lá mềm, mỏng, dễ bị xây xát, rách tướp) và điều kiện ngoại cảnh (có mưa dông, bão lũ làm xây xát, rách lá). Vì vậy, muốn hạn chế một cách tối đa vi khuẩn bạc lá lúa thì việc bón phân cân đối sao cho nội tại cây lúa không thuận lợi cho vi khuẩn xâm nhập là cần thiết. Xin chia sẻ kinh nghiệm như sau:

Ngay từ đầu vụ, để cây lúa không bị ngộ độc hữu cơ ở giai đoạn giữa vụ do gốc rạ phân hủy cần bón 15 - 20 kg vôi tả/sào. Làm đất phải đủ ngấu để cây lúa không bị nghẹt rễ giai đoạn còn non.

Nên sử dụng chủ yếu các loại phân hỗn hợp (NPK) để bón, nhất là các loại phân có hàm lượng kali cao. Dùng các loại phân đơn (đạm urê, supe lân, kali), nếu bón với tỷ lệ không hợp lý, nhất là thời kỳ đẻ nhánh và sau đẻ nhánh rộ, thừa đạm, lúa sẽ có nguy cơ nhiễm vi khuẩn bạc lá rất cao do lá lúa mỏng, dễ bị rách nát vì va đập.

Với các loại phân này cần bón lót đủ, thúc đẻ sớm và tập trung, đón đòng đúng thời điểm. Cụ thể, cần bón đúng liều lượng và bón theo hướng dẫn của từng loại (căn cứ vào các quy trình bón của mỗi công ty). Dùng NPK để bón thúc đòng nên chọn hình thức bón đón đòng (bón lúa đứng cái) chứ không nên bón nuôi đòng (lúa cứt gián). Trong quá trình sản xuất, các loại phân bón này được ép nén thành viên nên khả năng hòa tan, phân giải chậm hơn phân đơn. 

Đối với những hộ có trình độ thâm canh cao thì có thể áp dụng cách bón như sau:

- Bón lót: Dùng NPK 5:10:3 (25 - 30 kg/sào) bón vùi phân vào đất khoảng 5 - 6 cm (lúc cày bừa lần cuối) hoặc 5 kg phân DAP.

- Thúc đẻ sớm: Bón khoảng 3 - 3,5 kg đạm urê + 2 kg kali/sào (vào lúc cây lúa có khoảng 3,5 - 4 lá thật, lúa bắt đầu đẻ đối với gieo thẳng và cấy mạ sân, hoặc lúa bén rễ hồi xanh đối với lúa cấy mạ dược).

- Thúc đòng: Dùng 2 - 3 kg kali/sào (nếu lúa vàng lá gừng thì cần bón thêm 0,7- 1 kg đạm urê).

* Chú ý: Cần ưu tiên bón kali cao cho các giống hay bị nhiễm bạc lá. Các chân ruộng thuộc loại bùn hẩu cần giảm đạm, tăng kali cho cây cứng, lá dày, đỡ bị bạc lá cuối vụ.

Ngoài việc bón phân cân đối như trên, các chân vàn và vàn cao cần điều tiết nước hợp lý cho lúa phát triển thuận lợi như tháo cạn nước để mùn giun đùn lên khi cây lúa sắp bước vào quá trình đẻ nhánh. Duy trì mức nước 3 - 5 cm đến khi lúa đẻ được từ 300-350 dảnh/m2, rút cạn nước để nẻ nứt chân chim giúp cây lúa cứng, khỏe, bộ rễ ăn sâu, chống đổ tốt khi gặp giông bão vụ mùa. Khi lúa bắt đầu có cứt gián (lúa làm đòng), đưa nước lại ruộng và duy trì mức nước 4 - 6 cm đến lúc lúa trổ thoát và chắc hạt. Khi lúa đỏ đuôi, tháo kiệt nước đến lúc gặt.

Nông dân cần thường xuyên thăm đồng và theo dõi tình hình phát sinh, phát triển của các loài sâu bệnh để phòng trừ kịp thời. Phòng ngừa bệnh bạc lá vi khuẩn cần theo dõi các chương trình dự báo thời tiết diễn biến trong các ngày tới, tiến hành phun thuốc phòng bệnh bằng các loại thuốc như: Thysan, Antracol, Xanthomic, nước vôi trong trước hoặc sau các trận mưa dông, gió bão. Đồng thời, ưu tiên phát triển nhiều trà lúa mùa sớm, nhất là các giống lúa chất lượng có thời gian sinh trưởng ngắn ngày để né được bệnh bạc lá do vi khuẩn gây nên, góp phần giải phóng đất được sớm để phát triển các cây rau màu vụ đông trên các chân ruộng trong cơ cấu luân canh 3 - 4 vụ/năm.

KS. Trần Thị Liên(Trạm Khuyến nông Nam Sách)

>

Quản lý sử dụng thức ăn công nghiệp trong nuôi tôm

Trong hoạt động nuôi tôm nước lợ, chi phí thức ăn chiếm đến 70 - 75% giá thành sản xuất. Quản lý tốt thức ăn trong nuôi tôm giúp giảm giá thành sản xuất, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của vụ tôm.

Lựa chọn thức ăn tôm

Người nuôi nên sử dụng thức ăn viên công nghiệp được sản xuất trong nước hoặc thức ăn nhập khẩu để cho tôm ăn; chất lượng thức ăn phải đảm bảo có hàm lượng đạm tổng số 32 - 45%; thức ăn và chất bổ sung thức ăn phải nằm trong danh mục được phép lưu hành tại Việt Nam, có nhãn hàng hóa đầy đủ theo quy định về ghi nhãn hàng hóa và được bảo quản theo hướng dẫn ghi trên nhãn hàng hóa. Đặc biệt lưu ý, không sử dụng thức ăn đã hết hạn sử dụng.

Kiểm tra sàng cho tôm ăn thường xuyên - Ảnh: Trần Út 

Ngoài ra, tùy vào thực tế (sức khỏe của tôm, chu kỳ lột xác, thời tiết…) và theo dõi sàng ăn/chài khi tôm từ 20 ngày tuổi trở lên để điều chỉnh, quản lý thức ăn cho phù hợp, tránh cho ăn thiếu hoặc thừa đều ảnh hưởng đến tốc độ phát triển và sức khỏe của tôm.

Liều lượng cho tôm ăn

Ngày thứ 10 sau khi thả giống, cho thức ăn vào sàng/nhá/vó để tôm làm quen, thuận lợi cho việc kiểm tra lượng thức ăn dư sau này. Sàng đặt nơi bằng phẳng, cách bờ ao 1,5 - 2 m, sau cánh quạt nước 12 - 15 m, không đặt ở góc ao, khoảng 1.600 - 2.000 m2 đặt 1 sàng. Sau 15 ngày có thể sử dụng các chất bổ sung cung cấp vitamin, khoáng chất theo hướng dẫn của nhà sản xuất để giúp tôm tăng cường sức khỏe.


Đối với tôm sú: Tôm 1 - 3 ngày sau thả nuôi sử dụng thức ăn với lượng 1,2 - 1,5 kg/100.000 giống; ngày 4 - 10 mỗi ngày tăng thêm 200 g/100.000 giống; ngày 11 - 20 mỗi ngày tăng thêm 250 g/100.000 giống; ngày 21 cho đến khi thu hoạch mỗi ngày tăng thêm 300 g/100.000 giống; Đến ngày thứ 31 trở về sau điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp với việc kiểm tra mức độ sử dụng thức ăn qua việc kiểm tra sàng và chài.

Đối với tôm thẻ chân trắng: Ngày đầu tiên sử dụng thức ăn với lượng 2 kg/100.000 giống. Trong 20 ngày đầu tiên, cứ 1 ngày tăng 0,2 kg/100.000 giống. Từ ngày thứ 21, cứ 1 ngày tăng 0,5 kg/100.000 giống. Điều chỉnh thức ăn trong ngày qua theo dõi lượng thức ăn thừa trên sàng ăn.

Người nuôi tôm có thể phối trộn sản phẩm bổ sung như men tiêu hóa, khoáng, Vitamin C… vào thức ăn. Việc chuyển đổi loại thức ăn tôm cần phù hợp theo giai đoạn phát triển, cỡ miệng tôm và nhu cầu dinh dưỡng theo hướng dẫn của nhà sản xuất. Khi chuyển đổi thức ăn, nên trộn lẫn 2 loại thức ăn cũ và mới cho ăn ít nhất 3 ngày.


Cách điều chỉnh lượng thức ăn

Sử dụng sàng ăn rất quan trọng để kiểm tra việc cho ăn, bởi sàng ăn phản ánh khả năng sử dụng thức ăn, sức khỏe, tỷ lệ sống của tôm và điều kiện nền đáy ao nuôi. Sàng ăn thường là tấm lưới mịn với một khung sắt vuông hoặc tròn có gờ cao không quá 5 cm. Diện tích sàng ăn thường từ 0,4 - 0,6 m2. Sàng ăn nên đặt sát đáy ao, nơi sạch sẽ và hơi xa bờ ao. Tùy theo diện tích và mật độ thả mà có thể bố trí một hoặc nhiều sàng ăn trong.


Cách cho ăn: Tôm có khuynh hướng ăn ở những nơi được làm sạch bằng quạt nước, vì vậy cho ăn xung quanh ao được quạt nước làm sạch, tránh rải thức ăn vào nơi dơ bẩn và bờ ao. Tùy theo tình hình thực tế môi trường ao nuôi, thời tiết... mà có thể tăng hoặc giảm lượng thức ăn trong ngày cho phù hợp.

Lưu ý, những ngày thay đổi thời tiết như mưa, nắng gắt chỉ cho 70 - 80% lượng thức ăn đã định. Theo dõi kỳ lột xác để giảm lượng thức ăn và tăng sau khi tôm lột xác xong. Từ ngày thứ 35 trở đi chỉ cho 70 - 80% lượng thức ăn theo yêu cầu. 

Nguyễn Quang Trí (Tạp chí Thủy sản Việt Nam)

>

Quy trình nuôi ốc nhồi thương phẩm

Ốc nhồi thương phẩm có giá trị kinh tế cao, nhu cầu thị trường lớn. Việc nuôi thương phẩm ốc nhồi đáp ứng nhu cầu thị trường, giảm áp lực khai thác, bảo vệ và khôi phục nguồn lợi ốc tự nhiên.

Chuẩn bị ao nuôi

Vị trí ao nuôi nên chọn những nơi có khả năng cấp và thoát nước thuận lợi. Diện tích ao nuôi không nên quá lớn vì khó chăm sóc, quản lý địch hại, tốt nhất nên < 5.000 m2. Độ sâu mức nước trong ao 0,5 - 1,0 m. Bờ ao thiết kế cao hơn mức nước tối thiểu là 0,5 m. Đáy ao bằng phẳng, dốc về phía cống tiêu nước. Hàm lượng ôxy hòa tan > 1 mg/l, pH: 6,5 - 8.

Trước khi nuôi cần tẩy dọn sạch bằng cách tháo cạn, cào sạch bùn, cày, bừa, phơi đáy... Tạo độ dốc về phía cống, tu sửa cống. Làm hàng rào lưới ngăn ốc trong khu vực nuôi, để tránh ốc bò ra ngoài và sinh vật khác xâm hại. Sau đó tiến hành diệt tạp và ngăn ngừa sinh vật khác vào ao hại ốc.

Lấy nước vào ao nuôi qua lưới lọc để chắn rác và sinh vật khác vào hại ốc. Thả bèo lục bình làm vật bám cho ốc, diện tích thả bèo chiếm 1/4 diện tích ao nuôi. Làm khung ngăn bèo không để bèo phát triển lan ra quá diện tích cần thả bèo.

Để tạo mùn bã hữu cơ làm nguồn thức ăn tự nhiên trong ao cho ốc, trước khi thả ốc nên bón rơm, rạ băm nhỏ khắp đáy ao với lượng 10 -15 kg/100m2 và phân chuồng đã được ủ hoai với vôi bột, lượng 7 - 10 kg/100 m2. Bón trước khi thả ốc 7 - 10 ngày (khi thấy nước ao sủi bọt thì thả ốc giống).

Ốc nhồi đạt trọng lượng 25 - 30 con/kg cho thu hoạch - Ảnh: Ngọc Trinh

Chọn và thả giống

Chọn ốc giống đảm bảo chuẩn chất lượng, khoẻ mạnh, không bị sứt vỏ, dập vỏ, mòn vỏ và đỉnh vỏ, màu sắc tươi sáng, không có rong rêu bám. Kích cỡ ốc giống từ 0,4 - 0,5 g/con trở lên. Giống được vận chuyển bằng phương pháp giữ ẩm, không cần bơm ôxy nhưng không được đóng kín mà phải có độ thông khí với môi trường bên ngoài. Vận chuyển ốc bằng thùng xốp, có đục những lỗ thủng trên nắp thùng. Dải một lớp ốc sau đó đến một lớp rễ bèo rồi mới đến lớp ốc khác để ngăn cách giữa các lớp ốc. Trước khi thả ra ao, đổ ốc giống ra chậu sau đó cho nước từ từ vào chậu để ốc thích nghi dần với môi trường mới, khoảng 20 - 30 phút sau đó thả ốc xuống ao. Mật độ giống thả nuôi  trong ao là 70 con/m2.

Mùa vụ thả ốc giống: Từ tháng 4 đến tháng 6 hàng năm và nên thu hoạch trước mùa lạnh.

Chăm sóc, quản lý

Thức ăn cho ốc nhồi là các loại rau xanh, bèo, ngũ cốc. Ốc nhồi có tập tính vừa sống nổi vừa sống đáy, di chuyển chậm và thường phân bố không đều trong ao nuôi. Vì vậy cần cho ăn ở nơi ốc tập trung để ốc có thể bắt mồi một cách nhanh nhất, tránh tình trạng để dư hoặc thiếu thức ăn một cách cục bộ (sáng sớm ốc nhồi thường nổi lên mặt nước, bám vào lá sắn, lá dọc mùng, bèo để ăn vì vậy quan sát vào lúc sáng sớm sẽ biết được ốc tập trung ở khu vực nào nhiều hơn). Thức ăn xanh để nguyên cả cây, lá, không băm nhỏ vì ốc có tập tính bám, nó thường  bám dưới mặt lá để ăn. Mỗi ngày chỉ cho ăn thức ăn tinh 1 lần. Lượng thức ăn được điều chỉnh theo khả năng ăn của ốc, khoảng 0,5 - 1% khối lượng ốc trong ao. Trước khi có thức ăn tinh cần kiểm tra sàng ăn, nếu thấy còn thức ăn tinh thì không cho ăn thức ăn tinh lần sau.

Đối với ốc nuôi ở trong ao thì việc kiểm tra thức ăn xanh thừa hay thiếu dễ dàng nhưng kiểm tra lượng thức ăn tinh thì khó hơn phải đặt sàn ăn bằng phên tre đan dày. Trước khi cho ốc ăn lần sau phải kiểm tra thức ăn lần trước trong sàn ăn, nếu thấy còn thì ngừng cho ăn. Nếu ao nhiều mùn bã hữu cơ có thể không cần cho ăn thức ăn tinh mà chỉ cần cho ốc ăn thức ăn xanh.

Sau khi thả ốc giống đến khi 2 tháng tuổi không cần thay nước. Sang tháng nuôi thứ 3, định kỳ 2 tuần thay nước 1 lần, mỗi lần thay 3/4 lượng nước trong ao.

Thu hoạch

Ốc nhồi sau khi nuôi từ 3 - 4 tháng đạt trọng lượng thương phẩm 25 - 30 con/kg thì có thể tiến hành thu hoạch. Nên thu hoạch ốc trước mùa đông. Có thể thu tỉa bằng cách dùng thuyền đi quanh bờ ao để bắt những con to (buổi sáng ốc thường nổi lên bám vào lá dọc mùng, lá sắn, dễ bèo để ăn nên việc thu hoạch rất dễ). Sau khi thu tỉa ốc to, ta có thể thả bù ốc nhỏ. Nếu thu hoạch toàn bộ thì sau khi dùng thuyền để thu, số ốc còn lại trong ao có thể tháo cạn nước ao.

Chỉ với diện tích 2.000 m2, gia đình ông Nguyễn Văn Ngâm, xã Đông Mỹ, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội, nuôi ốc nhồi trung bình thu lãi 20 triệu đồng/vụ.

Trương Gia Phong (Tạp chí Thủy sản Việt Nam)

>

Những lưu ý khi thu hoạch nhãn

Hiện đang là thời điểm thu hoạch nhãn của các địa phương. Để thu hoạch gọn và cây phát triển tốt trong vụ sau, người trồng cần lưu ý:

Ảnh minh họa

Cách phát hiện nhãn đã chín: Người trồng có thể nhận biết quả chín bằng cách quan sát vỏ, cùi và hạt. Quả nhãn khi chín vỏ chuyển từ màu nâu hơi xanh sang màu nâu sáng, vỏ mọng, nhẵn, hạt có màu đen bóng, cùi nhiều nước, thơm và ngọt, dùng tay nắn thấy mềm.

Cách thu hoạch hợp lý: Cành nhãn có các mầm ngủ phía dưới (để tạo hoa quả năm sau). Vì vậy, khi thu hoạch cần dùng kéo cắt nguyên chùm quả cho vào sọt có lót lá chuối. Không cắt hết cành lá vì sẽ ảnh hưởng đến các mầm ngủ phía dưới chùm quả, làm mất khả năng nảy lộc cho vụ sau. Khi thu hái chú ý không để cành bị xước. Nên thu hoạch ngày tạnh ráo vào buổi sáng hoặc buổi chiều. Hái xong nên để quả vào chỗ râm mát. Nếu chưa đem bán kịp thì nên rải quả thành một lượt mỏng, không nên xếp thành từng đống sẽ nhanh hư hỏng. 

Chú ý: Muốn bảo quản quả nhãn được lâu, giữ được mã đẹp và phẩm chất tươi ngon, người trồng cần lưu ý một số khâu sau:

- Trước khi thu hoạch khoảng 1 tuần nên ngừng tưới nước. Cần hái nhãn khi quả đúng độ chín, không nên để nhãn quá chín rồi mới hái. Vì như vậy quả sẽ nhạt, độ tươi ngon sẽ giảm do đó không giữ được phẩm chất vốn có của giống. 

- Không nên thu quả vào ngày mưa vì lượng nước trong quả nhiều, nhãn sẽ không ngọt và hay bị thối. Không nên thu vào ngày quá nóng, quả nhãn sẽ hô hấp mạnh khi ở nhiệt độ cao sẽ không có lợi cho cất trữ và vận chuyển. Nên hái cả chùm, tỉa bỏ các quả bị bệnh, quả bị dập nát và cất trữ, vận chuyển nhẹ nhàng. 

- Có thể dùng túi giấy, hộp các tông hoặc sọt tre, hòm gỗ thưa để bảo quản và vận chuyển. Trong thùng nên lót một lớp mỏng giấy chống ẩm. Nếu có điều kiện nên dùng kho lạnh (từ 5 - 10 độ C) để cất trữ  và bảo quản. 

KS. Trần Thị Liên (Báo Hải Dương)

>

Dùng bẫy đèn diệt trừ sâu đục thân hại cà phê

Tại TP. Đà Lạt (Lâm Đồng) đang xuất hiện tình trạng sâu đục thân mình trắng (Xylotrechus quadripes Chevrolat) tàn phá cây cà phê, gây thiệt hại nặng cho nông dân. Theo các chuyên gia nông nghiệp, loại sâu này hoạt động quanh năm và phát triển mạnh ở những khu vực nhiệt độ cao và nhiều ánh sáng.
    
Để phòng trừ kịp thời loại sâu đục thân này, người trồng cà phê cần biết: Sâu đục thân mình trắng trưởng thành là một loại xén tóc nhỏ có màu xanh đen. Con trưởng thành đẻ trứng vào vết nứt của đoạn cành hoặc thân rải rác hoặc thành từng cụm. Sau khi nở, sâu non đục vào gỗ, rồi đục ngoằn nghèo quanh vòng cây, tiện ngang các mạch gỗ. Sâu đục tới đâu, đùn phân và mạt cưa bịt kín đến đó. Đến tuổi 5, tuổi 6 sâu đục ra phía gần vỏ tạo 1 khoảng rộng trong phần gỗ của cây và hoá nhộng tại đó.

Sâu đục thân mình trắng hại cà phê. Ảnh: T.L

- Vòng đời từ trứng - sâu non - trưởng thành - đẻ trứng là 200 - 211 ngày trong vụ đông và 126 - 176 ngày đối với vụ hè.

- Cây cà phê bị sâu đục thân mình trắng gây hại có các biểu hiện sau:

+ Toàn bộ lá phía trên ngọn bị vàng héo, các lá phía dưới còn xanh tốt, cây mọc thêm nhiều chồi thân.

+ Trên thân có những đường lằn nổi lên theo vòng, vỏ bị nứt nẻ, có những lỗ đục đường kính 2-3 mm.

+ Cây dễ bị gãy gục tại chỗ bị sâu đục.

+ Chẻ dọc thân cây thấy có đường rãnh sâu đục, phát hiện có sâu non màu trắng ngà, không có chân, toàn thân gồm nhiều đốt.

Biện pháp phòng trừ:

- Đối với vườn cà phê đang bị sâu đục thân phá hại, cần tiến hành cưa bỏ những đoạn cành, thân cây có sâu đục thân hại để tiêu diệt bằng cách đốt hoặc chẻ thân cây ra, thu sâu non để diệt.

- Con trưởng thành (bướm, xén tóc) thường bị kích thích và thu hút bởi ánh sáng vì thế có thể dùng bẫy đèn để bắt các con trưởng thành và tiêu diệt vào đầu mùa mưa. Thời điểm này chúng thường ghép đôi và sinh sản.

- Sử dụng một số loại thuốc BVTV sau để phun trừ: Hoạt chất Diazinon (Diazol 10G, liều lượng 15g/gốc; Diazan 50EC, liều lượng 2,5 lít/ha); hoạt chất Chlorpyrifos Ethyl + Cypermethrin (Tungcydan 55EC, liều lượng 1,0 lít/ha)… Lượng nước phun 800 lít/ha, phun lên thân cây 2-3 lần để diệt sâu non ngay từ khi mới nở. Chú ý phun ướt đều toàn bộ cây, đặc biệt phun kỹ thân cây, và phun vào sáng sớm hoặc chiều mát.

- Trồng cây che bóng làm giảm cường độ ánh sáng. Cắt tỉa cành để cây có được bộ tán lá cân đối và thân cây được che phủ từ trên xuống dưới. Bón phân cân đối, đầy đủ để cây phát triển tốt, tăng sức đề kháng cho cây.

- Bảo vệ thiên địch, loài ong Apenesia sahyadrica Azevedo & Waichert ký sinh trên giai đoạn sâu non của sâu đục thân mình trắng.

Ánh Nguyệt (Trung tâm Khuyến nông Quốc gia)

>

Mọt nước hại lúa

Thời gian qua, tại huyện Quỳ Hợp (Nghệ An) xuất hiện dịch mọt nước gây hại trên giai đoạn mạ vụ mùa.

Mọt nước hại lúa tại xã Châu Quang

Đối tượng này từng gây hại trên 10 ha mạ vụ xuân 2012 tại các xã Châu Quang, Châu Đình, Đồng Hợp. Năm nay, xã Châu Quang có 2 ha mạ bị nhiễm. 

Bà Lê Thị Vân, xóm trưởng xóm Khánh Quang, xã Châu Quang cho biết: “Hiện cả xóm có khoảng 1 ha mạ nhiễm, riêng gia đình bà vụ này gieo 6 kg giống bị nhiễm toàn bộ. Trạm bảo vệ thực vật Quỳ Hợp cũng đã kịp thời phát hiện chỉ đạo công tác phòng trừ”. 

Mọt nước (Lissorhoptrus oryzophilus Kuschel), được phát hiện năm 1881, đến năm 1951 Kuschel phân đã loại đối tượng dịch hại này. Là một loài thuộc họ vòi voi (Curculionidae), bộ cánh cứng (Coleoptera) có nguồn gốc từ Mỹ. 

Ở nước ta chỉ mới xuất hiện trong một vài vụ lúa gần đây, nhưng nhiều nơi trên thế giới nó như một dịch hại nguy hiểm và đã kháng thuốc. Đến năm 2010 việc sử dụng nhóm diamide và neonicotinoid như một giải pháp mới nhất. 

Mọt nước trưởng thành ăn mô lá, để lại các vết xước dọc theo phiến lá. Chúng thích nghi trong môi trường nước. Bình thường chúng ăn các thực vật thủy sinh, mùa đông thì trú ẩn trong các bờ ruộng. Tuy nhiên gây hại nặng nhất là giai đoạn ấu trùng. Ấu trùng của mọt nước ở trong đất, tấn công rễ lúa. 

Biểu hiện lỗ mọt nước chui lên sau khi vũ hóa

Trưởng thành đẻ trứng vào trong các bẹ lá nằm dưới mặt nước, trước đây người ta cho rằng trứng đẻ vào rễ vì thấy ấu trùng ăn rễ. Sau 4 - 9 ngày, trứng nở trong nước, ấu trùng chui ra và thả mình xuống đất, đục sâu vào rễ. Giai đoạn ấu trùng kéo dài 28 - 35 ngày, sau đó hóa nhộng. Ở nhiệt độ 20 độ C, thời gian ấu trùng có thể kéo dài đến 50 ngày, chiều dài ấu trùng có thể hơn 1 cm

Ấu trùng ăn rễ lúa và sử dụng oxy để sống nhờ vào cấu tạo chuyên biệt của tế bào rễ lúa. Các tế bào nhu mô khoảng cách (aerenchyma) hay còn gọi là phế căn có mô khí và có chức năng trao đổi khí, tạo ra những khoảng trống to chứa khí giúp rễ trao đổi khí trong đất bị ngập nước. 

Sau khoảng 5 - 14 ngày thì ấu trùng hóa nhộng. Trước khi hóa nhộng, ấu trùng nhả tơ tạo thành buồng nhộng hình bầu dục, che kín và nước không thể vào cũng như không khí không thể thoát ra. 

Hình thái mọt nước hại lúa tại xã Châu Quang 

Sau khi vũ hóa, mọt nước có thể bơi trong nước, con trưởng thành chủ yếu ăn mô lá. Kích thước trưởng thành của mọt nước hại lúa chỉ 3 - 4 mm màu nâu nhạt. Chúng thích nghi với đời sống thủy sinh, nhờ có các sợi lông kỵ nước trên chân, cho phép chúng có thể bơi như một số loài thuộc bộ cánh cứng và bộ cánh nửa sống thủy sinh khác. 

Biện pháp phòng trừ: 

- Dọn cỏ sạch bờ ruộng, bờ đê vì đây là nơi duy trì tích lũy nguồn mọt nước. 

- Tháo nước khô ruộng trước khi vào vụ mới, hoặc khi xuất hiện mọt gây hại. Ruộng khô có thể gây chết và ngăn chặn tốc độ gây hại của trưởng thành, vì trưởng thành di chuyển trong nước tốt hơn. Tuy nhiên biện pháp này không kiểm soát được trứng và ấu trùng. 

- Sau mỗi vụ thu hoạch, cho nước ngập chìm gốc rạ (nếu điều kiện thủy lợi cho phép) đến khi rơm rạ bị phân hủy. Cắt nguồn thức ăn của mọi nước. 

- Nên xử lý hạt giống trước khi gieo bằng các thuốc có chứa thiamethoxam như Actara 25WG, Cruiser plus 312.5FS. 

- Nếu mật độ vượt ngưỡng gây hại kinh tế, phòng trừ bằng các thuốc hóa học thuộc nhóm diamide (Chloratrniliprole) và neonicotinoids (Thiamethoxam) với các thuốc như Actara 25WG, Virtako 40WG. 

- Ngoài ra có thể sử dụng các thuốc có chứa lambda-cyhalothrin (Karate 2.5EC), fipronil (Regent 800WP), diflubenzuron… Trong biện pháp sinh học sử dụng chế phẩm vi khuẩn Bacillus thuringiensis.

ThS Phan Anh Thế (nongnghiep.vn)

>

Kỹ thuật chăn nuôi gà tây Huba thịt

Gà tây Huba được nhập vào nước ta từ năm 2008, sau thời gian nuôi thích nghi chịu đựng tốt trong môi trường nhiệt đới nóng ẩm, có khả năng chăn thả, tự kiếm ăn. Tỷ lệ nuôi sống: 92 - 95%, khối lượng cơ thể 5 tháng tuổi: 5,5 - 6,0 kg/con; tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng: 3,2 - 3,3 kg. Hiện nay, nhiều vùng ở Hưng Yên và Hà Nội phát triển chăn nuôi giống gà này thay thế dần gà tây nội có năng suất thấp.


I. Điều kiện chăn nuôi

1. Chuồng nuôi gà tây

- Chuồng nuôi cần đáp ứng yêu cầu chung về chuồng nuôi gia cầm.

- Tiến hành xây chuồng nuôi trên một khu đất cao 30 - 50 cm trong vùng đất khô.

- Độ cao thích hợp cho chuồng nuôi là 2,5 - 2,8m vì gà tây thích nghỉ ngơi trên sào gỗ cao. Mái hiên rộng ít nhất 30 - 40cm.

- Chuồng nuôi cần phải có cửa sổ ánh sáng ở phía Nam hoặc phía Đông Nam, Cửa sổ phải cách sàn nhà 40 - 50cm, diện tích cửa sổ tối thiểu 20% khoảng không gian trong chuồng.

- Nền chuồng có thể được làm bằng đất sét nện hoặc bằng bê tông để dễ dàng vệ sinh và tẩy uế.

Đối với gà non và gà trưởng thành chuồng nuôi đơn giản. Chúng được làm từ vật liệu rẻ và đơn giản, có thể tháo rời được và vận chuyển dễ dàng. Chuồng nuôi kín 3 phía. Độ cao đằng trước: 2,5- 3m, đằng sau: 1,5 - 2m; chiều rộng: 2-3 m; chiều dài phụ thuộc vào số lượng nuôi.

Trong chuồng nuôi cần có sào đậu, chiều cao sào đậu: 50cm (con non); 70 - 150cm (con trưởng thành); chiều dài sào đậu tối thiểu: 35 - 40 cm/con.

2. Dụng cụ chăn nuôi

2.1. Máng ăn

Máng ăn: gà tây 1 ngày tuổi có thể cho ăn từ những hộp giấy cắt (mép cao 2-3cm), hoặc hộp nhựa mép cao 5cm.

0 - 7 ngày tuổi: 40 - 60 con/máng (kích thước máng: cao 3cm x rộng 50cm x dài 80cm)

7 - 42 ngày tuổi: 30 - 40 con/máng tròn (đường kính 40cm).

Sau 42 ngày tuổi: máng ăn tự động: 1 con/3 - 4cm máng dài.

Máng ăn tự động có thể được thay thế bằng máng sắt hoặc máng gỗ rộng 25 - 30cm và cao 15 - 20cm với chân máng cao 40 - 60cm.

2.2. Máng uống

1 - 5 ngày tuổi:     30 con/máng uống (2 lít)

                             hoặc 1 con/1 cm máng uống dài

5 - 42 ngày tuổi:   60 con/máng uống tròn (đường kính 40cm)

                             hoặc 1 con/2 cm máng uống dài.

Sau 42 ngày tuổi: Máng ống cắt (đường kính 130 mm) hoặc máng uống dài: 1 con/2 cm (1 con/1 cm trong trường hợp 2 mặt ngang nhau).

3. Sân chơi và bãi cỏ cho gà tây 

- Diện tích sân chơi tối thiểu gấp 2 - 3 lần diện tích chuồng nuôi.

- Bãi cỏ tiêu chuẩn cho gà tây là vườn cây ăn quả.

- Có thể đưa gà tây tới nơi trồng cỏ.

- Nếu không có đồng cỏ nào tốt, chúng ta phải tạo nơi chạy nhảy cho gà tây: yêu cầu 20 - 25 m2/con.

- Nơi tắm cát cần được đặt trong khu chơi.

- Nơi chơi cần phải được bảo vệ bằng lưới cao 2,5m.

II. Kỹ thuật nuôi gà tây thịt

1. Chuẩn bị điều kiện nuôi gà tây con

Mục đích: Tạo những điều kiện tối ưu cho gà tây đến 6 tuần tuổi.

Trước khi nuôi gà cần chuẩn bị đầy đủ mọi điều kiện vật chất kĩ thuật như: chuồng nuôi, rèm che, cót quây, chụp sưởi, máng ăn, máng uống. Kiểm tra các trang thiết bị lần cuối trước khi đưa gà vào nuôi.

Tất cả các dụng cụ phải được khử trùng trước khi sử dụng 2 - 3 ngày. Chuồng được xông hơi bằng KMnO4 + Foocmol (120 ml foocmol + 60g KMnO4 cho m3 chuồng) rồi đóng kín cửa lại trong 24 giờ, sau đó mở cửa và thông hơi 12 - 24 giờ trước khi đưa gà xuống chuồng. Chuẩn bị đầy đủ thức ăn, thuốc thú y cần thiết cho đàn giống.

Chuồng nuôi phải được thông thoáng tốt sau lần khử trùng cuối cùng. Được đặt ở nhiệt độ ấm tối ưu, hoặc bật lò sưởi và điều chỉnh nhiệt độ chuẩn. Nhiệt độ trong quây úm phải được đảm bảo cao hơn 2 - 30C so với nhiệt độ trong chuồng nuôi.

Sử dụng cót ép cao 40 - 50cm để quây cho gà tây 1 ngày tuổi.

Chất độn chuồng: trấu, dăm bào sạch hoặc rơm chặt ngắn (cắt khoảng 5 - 6 cm), không bị mốc trải dày 5 - 10 cm và được phun thuốc sát trùng (fooc mol 2%). Sưởi ấm chuồng 10 - 12 giờ trước khi đưa gà vào.

2. Chọn giống và thả gà con

Chọn những con gà nhanh nhẹn, mắt sáng, bông lông, bụng gọn, chân mập. Tránh chọn nuôi những con gà khô chân, vẹo mỏ, khoèo chân, hở rốn, xệ bụng, lỗ huyệt bết lông.

Các bước khi tiến hành thả gà con:

- Máng uống cần phải được đổ đầy nước (20-220C) với lượng vitamin mới và phải được hòa tan.

- Đổ sẵn thức ăn vào máng ăn trước khi đưa con non vào.

- Hộp vận chuyển khi mang tới chuồng nuôi được sắp xếp đều trong khu vực thích hợp.

- Bắt đầu thả gà từ những hộp phía trong trước và lùi dần ra ngoài.

Lưu ý:

- Nơi đặt máng ăn cần phải được chiếu sáng vì gà tây con nhìn rất kém.

- Để gà con lớn đều cần nuôi ở mật độ đàn tương đối thấp và kích cỡ đàn nhỏ.

- Gà con ở độ tuổi khác nhau cần phải nuôi riêng biệt.

3. Nhiệt độ

Gà tây con rất cần ấm bởi vì nó không tự điều chỉnh thân nhiệt trong 2 tuần đầu. Do vậy việc giữ ấm theo nhu cầu cơ thể gà trong các tuần tuổi đầu mới xuống chuồng rất cần thiết. Nếu không đảm bảo đủ nhiệt độ, tỷ lệ nuôi sống và khả năng sinh trưởng sẽ bị ảnh hưởng, các bệnh đường hô hấp, tiêu hóa dễ phát sinh.

Bảng 1. Nhiệt độ nuôi gà tây con


Từ 3 tuần tuổi, gà con cần có nơi để chạy. Đầu tiên chỉ cần mở lỗ hổng vào ban ngày - gà con có thể ra ngoài nếu muốn. Sau đó, chúng ta có thể ngăn gà con ở bên ngoài khoảng 1 - 2 giờ khi thời tiết cho phép. Không cho chúng ở ngoài khi trời mưa, hoặc nơi có nước ở khu vực chơi hoặc cỏ bị ướt vì chúng rất nhạy cảm. Khi chúng có bộ lông hoàn chỉnh đầu tiên (5 tuần tuổi) - sau khi thay lông - chúng chịu được nước, thậm chí chúng có thể tắm được. Khi đó, máng ăn và máng uống có thể để ra ngoài.

Thiết bị sưởi ấm: Có thể dùng bóng điện, bóng hồng ngoại ở những nơi có điện hoặc đèn măng xông, bếp than, lò ủ trấu,... ở vùng sâu vùng xa.

Dụng cụ sưởi treo giữa quây trong ô chuồng, đặt cao hay thấp tùy theo yêu cầu nhiệt độ cụ thể.

Trong quá trình nuôi, quan sát phản ứng của đàn gà đối với nhiệt độ:

- Nếu đàn gà tập trung gần nguồn nhiệt chen lấn, chồng đống lên nhau là chuồng nuôi không đủ nhiệt độ, gà bị lạnh.

- Nếu đàn gà tản xa nguồn nhiệt, nháo nhác, khát nước, há mỏ để thở là bị quá nóng, cần phải điều chỉnh giảm nhiệt độ.

- Nếu gà con tụm lại một phía là bị gió lùa, rất nguy hiểm, cần phải che kín hướng gió thổi.

- Khi nhiệt độ trong quây thích hợp gà vận động, ăn uống bình thường, ngủ nghỉ tản đều.

Chụp sưởi giữ ấm cho gà con

4. Ẩm độ

Độ ẩm trong chuồng cũng ảnh hưởng rất lớn đến sự điều chỉnh nhiệt của gà con. Độ ẩm tương đối 60 - 70% là phù hợp với gà tây, tuy nhiên ở Việt Nam độ ẩm chuồng trại bao giờ cũng cao hơn nhiều. Để khắc phục độ ẩm cao ở Việt Nam chuồng trại phải luôn giữ cho khô ráo, tránh ẩm ướt. Đặc biệt gà tây con mới nở tuyệt đối không để gà bị ướt vì giai đoạn này chúng rất mẫn cảm với nước.

5. Ánh sáng

Gà con cần chiếu sáng 24/24h từ 1 - 3 tuần đầu, sau đó giảm dần còn ánh sáng tự nhiên.

Trước khi gà đẻ 1 tháng, sử dụng bóng đèn có công suất 75 - 100W. Cường độ ánh sáng 3 - 4 W/m2 nền chuồng.

Chú ý: Lượng ánh sáng phải được phân bố khắp chuồng nuôi.

6. Mật độ nuôi

* Nuôi nền, sử dụng độn chuồng:

Bảng 2. Mật độ nuôi gà tây con


Trong nuôi chăn thả, khi gà tây ở 8 tuần tuổi, mật độ nuôi có thể cao hơn 12 con/m2. Đến 10 - 12 tuần tuổi có thể nuôi 6 - 8 con/m2 cũng không cần san ra, tuy nhiên lớn hơn nữa nếu không san ra thì sẽ chết nhiều.

* Nuôi trên sàn lưới:

Có thể nuôi gà tây con trong lồng đến 8 tuần tuổi. Mật độ nuôi gà tây trên lồng có thể nuôi 60 - 80 con/m2 đến 2 tuần tuổi; 30 - 40 con/m2 đến 4 tuần tuổi và 15 - 20 con/m2 đến 6 tuần tuổi.

7. Nuôi dưỡng, chăm sóc

7.1. Cho ăn

3 - 4 tuần tuổi đầu, gà tây được cho ăn thức ăn hỗn hợp. Sau đó chúng ta có thể thay đổi: gà ăn ngô, gạo. Yêu cầu về protein có thể đáp ứng đủ bằng đậu tương, nguồn protein rau khác và nguồn protein động vật. Cần cho gà ăn nhiều lần trong ngày. Lượng thức ăn mỗi lần cân đối đủ theo nhu cầu để thức ăn luôn được mới, sạch sẽ, kích thích tính thèm ăn của gà. Mỗi lần cho ăn cần loại bỏ chất độn chuồng và phân lẫn trong máng để tận dụng cám cũ.

Thức ăn phải cân đối đầy đủ các chất dinh dưỡng đáp ứng cho nhu cầu phát triển trong giai đoạn nuôi. Thức ăn phối chế đa nguyên liệu, sử dụng đạm có nguồn gốc từ động vật, thực vật, Premix vitamin, khoáng vi lượng. Không dùng nguyên liệu bị nấm mốc, nhiễm độc tố aflatoxin, hoặc bột cá có hàm lượng muối cao. Dùng đỗ tương phải rang chín gà mới tiêu hoá được, nếu không gà ăn vào sẽ bị rối loạn tiêu hoá.

Bảng 3. Giá trị dinh dưỡng nuôi gà tây thịt


7.2. Cho uống

Gà tây cần nước chất lượng tốt liên tục, sạch. Thiếu nước có thể gây nên rối loạn, đặc biệt là mới nuôi và khi nhiệt độ nóng.

Cần cho gà uống nước sạch và để tăng sức đề kháng, trong những ngày đầu nhiệt độ nước phải từ 20 - 220C và nên pha vào nước 5 gram đường gluco + 1 gram vitamin C/1 lít nước. Sử dụng chụp nước uống tự động bằng nhựa, chứa 3,5 lít nước cho 100 con. Vị trí đặt chụp nước có khoảng cách thích hợp với khay ăn để thuận tiện cho gà ăn uống.

Nước cần phải luôn luôn sạch, phải thay vài lần trong một ngày khi thay nước thì máng nước phải được thay đổ hết, rửa sạch và đổ đầy nước mới một ngày một lần bất kể loại nước uống nào. Đối với gà tây tốt nhất là dùng nước máng chảy.

Trong thời gian ở trên bãi chăn luôn phải có đủ nước, nếu trên bãi chăn không có nguồn nước thì phải chứa vào máng uống. Điều này rất quan trọng trong những ngày nóng vì thiếu nước gà tây chịu nóng rất khó khăn.

7.3. Chăm sóc gà tây

Đặc điểm chung

- Trong chuồng nuôi nên hạn chế sử dụng tới mức tối thiểu thiết bị tạo nên tiếng ồn. Tránh tiếng động lớn đột ngột.

- Chúng ta phải làm việc trong chuồng nhẹ nhàng, tránh làm gà bị kích động. Gà tây dễ thích nghi với giọng nói của con người, chúng sẽ dần dần nhận biết người chăm sóc của chúng, người lạ mặt không được làm náo động đàn gà.

Điều kiện để tránh mổ lông:

Mật độ đàn thấp; Chia thành nhiều nhóm nhỏ; Nhiệt độ ổn định; Độ ẩm (tối ưu) thấp; Chế độ ánh sáng thích hợp; Chất độn chuồng khô, sạch; Thức ăn chuẩn, đủ số lượng.

Chất độn chuồng

- Mùn cưa hoặc rơm (cắt khoảng 5 - 6cm), sạch, khô, không bụi và mốc là những vật liệu tốt nhất làm chất độn chuồng.

- Làm tơi chất độn chuồng 2-3 lần/1 tuần.

- Chất độn chuồng không được ướt. Chất độn chuồng ướt hoặc quá bẩn cần được thay mới.

- Khi thay mới chất độn chuồng (và mọi công việc khác) cần tiến hành đưa gà tây ra ngoài.

- Thường xuyên kiểm tra chất độn chuồng quanh máng uống.

Chăm sóc gà tây con

- Gà tây Huba từ 3 tuần tuổi cần phải được tập chạy. Tránh không cho gà tập chạy ở nơi có bệnh, cỏ có cát, bùn đất.

- Từ 6 - 7 tuần tuổi, có thể tập cho gà tây Huba ăn cỏ ở những phòng chứa (nhà kho).

- Sau 6 - 7 tuần tuổi, gà cần phải được đưa đến nơi có cỏ tốt.

- Bãi cỏ phải cách ly đối với xe cộ và người đi lại, và không tiếp xúc với loài gia cầm khác.

- Nếu không có bóng râm tự nhiên trên đồng cỏ, cần phải làm những bóng râm di động để có thể chuyển từ bãi này sang bãi khác. Diện tích bóng râm bảo đảm 1m2/con.


Ghi chú: Trong chăn nuôi gà tây lấy thịt ngoài việc chăm sóc nuôi dưỡng thoả mãn đầy đủ các nhu cầu sinh lý cho gia cầm phát triển đòi hỏi mỗi giai đoạn sẽ khai thác tối đa tiềm năng di truyền của giống, đạt khối lượng giết thịt càng sớm càng tốt.

Để nuôi gà tây vỗ béo thì sau khi nuôi gà tây choai kéo dài đến 10-12 tuần tuổi sau đó chúng được chuyển tới cơ sở vỗ béo. Lúc này gà tây trống nặng khoảng 2,5-3 kg, gà tây mái nặng khoảng 1,5-2 kg và chúng có sức chống bệnh tốt, rất ít đòi hỏi những điều kiện khắt khe. Chế độ chăm sóc nuôi dưỡng như đã nêu ở trên, gà nuôi thịt thì được ăn tự do suốt ngày đêm (ăn càng nhiều càng tốt) cho đến khi giết thịt.

Thời gian chiếu sáng: ban ngày dùng ánh sáng tự nhiên, đêm thắp bóng điện. Sau 4 tuần có thể thả gà ra sân chơi giúp gà tăng cường vận động, cơ săn chắc.

Bảng 4. Khẩu  phần  thức  ăn  phối chế nuôi  gà tây thịt


Bảng 5. Lịch phòng Vắc-xin và thuốc cho gà tây nuôi thịt


TS. Nguyễn Duy Điều (Trung tâm Khuyến nông Quốc gia)
>

Kỹ thuật nuôi hàu

Trong nuôi hàu, việc chọn vị trí nuôi rất quan trọng, quyết định thắng lợi của việc nuôi. Vùng nuôi phải là ở vùng cửa sông, ít sóng gió, có độ mặn 20-30, pH thích hợp 7,5-8,5. Nguồn nước sạch, nước lưu thông (có dòng chảy nhẹ), màu nước xanh có nhiều sinh vật phù du. Độ sâu nên chọn vùng hạ triều, chất đáy tương đối cứng. Nên tránh những khu vực có nhánh sông đổ ra trực tiếp. Bãi nuôi hàu phải bảo đảm độ ngập nước cho hàu khi con nước ròng. Khu vực nuôi phải xa khu dân cư, ít thuyền bè qua lại, tránh nước thải công nghiệp và nước thải sinh hoạt.

Ảnh minh hoạ.

Mỗi năm có 2 vụ lấy giống. Vụ chính từ tháng 4-5 (tháng 3-4 âm lịch), vụ phụ từ tháng 9-10 (tháng 8-9 âm lịch). Phương pháp lấy giống có hiệu quả cần dựa vào một số tiêu chí như mùa vụ xuất hiện của con giống.

Các yếu tố của môi trường: Nhiệt độ của nước 20-300C, độ mặn của nước 20-30, pH 7,5-8,5; mật độ ấu trùng bám của hàu nhiều nhằm chọn thời điểm thả vật bám cho phù hợp. Tiêu chuẩn của vật bám lấy giống là phải sạch, không mùi vị, không độc, có độ cứng và độ ráp nhất định để hàu dễ bám. Vật bám có thể là vỏ hàu (kích cỡ 5x10cm), tấm phibro ximăng (20x30cm hoặc 20x40cm), vỏ lốp xe (15x25cm), gạch ống, ngói.

Nuôi thương phẩm có 3 hình thức: Nuôi giàn, nuôi bè và nuôi lồng. Nuôi giàn có kỹ thuật nuôi đơn giản, chi phí thấp nhưng chất lượng hàu không cao. Nuôi bè dễ quản lý, dễ chăm sóc, cho hiệu quả kinh tế cao nhưng chi phí đầu tư cao hơn nuôi giàn. Nuôi lồng tốc độ tăng trưởng của hàu nhanh, cho năng suất cao nhưng chi phí đầu tư cao nhất so với các hình thức khác.

Quản lý chăm sóc: Nếu điều kiện môi trường không thuận lợi như độ mặn thấp, nguồn thức ăn giảm… có thể hạ các dây nuôi xuống sâu hoặc di chuyển hàu đến vùng khác; thường xuyên kiểm tra các thiết bị nuôi như dàn bè, phao, dây nuôi, lồng nuôi nhằm phát hiện và sửa chữa kịp thời. Cần chú ý mật độ bám và vị trí bám của hàu trên dây nuôi. Nếu hàu bám nhiều ở tầng trên của dây nuôi chứng tỏ nền đáy có vấn đề như oxy thấp, pH thấp hoặc bùn đáy quá dày, rong bám nhiều, đáy có nhiều khí độc… cần làm vệ sinh nền đáy, điều chỉnh vật bám thưa ra. Thường xuyên tiêu diệt các động vật ăn hàu như loài ốc tim gà, ốc ngọc, ốc gai, ốc đỏ; các loài giáp xác như cua còng, cáy và thu các bọc trứng của ốc vào mùa sinh sản (tháng 7-9). Định kỳ vệ sinh hàu bằng cách dùng bàn cọ rửa trên hàu để loại bỏ các chất bẩn, rong và sinh vật bám. Sau khi nuôi khoảng 6 tháng nên thu tỉa bớt những con hàu lớn nhằm giảm mật độ nuôi để hàu sinh trưởng nhanh.

Theo Bản tin Khuyến nông Quảng Ninh
>

[DOANH NGHIỆP][carouselslide][recent][20]

[Cộng đồng][simple][recent][5]

[Sức khỏe][vertical][animated][20]

[video][simple][recent][5]

[Kỹ Thuật][simple][recent][6]

[Việc làm][simple][recent][5]

[DOANH NGHIỆP][carouselslide][recent][20]

[Thị Trường][vertical][animated][20]

Tìm Kiếm

Lưu trữ

[Phân bón][simple][recent][7]

[TIN VẮN][noimage][random][5]

Để Lại Thắc Mắt

MIỀN TRUNG - TÂY NGUYÊN

Bình Định Bình Thuận Đà Nẵng Đăk Lăk Đăk Nông Gia Lai Hà Tĩnh Khánh Hòa Kon Tum Lâm Đồng Nghệ An Ninh Thuận Phú Yên Quảng Bình Quảng Nam Quảng Ngãi Quảng Trị Thanh Hóa Thừa Thiên Huế
Lazada Philippines

Xem nhiều

MIỀN BẮC

Bắc Giang Bắc Kạn Bắc Ninh Cao Bằng Điện Biên Hà Giang Hà Nam Hà Nội Hải Dương Hải Phòng Hòa Bình Hưng Yên Lai Châu Lạng Sơn Lào Cai Nam Định Ninh Bình Phú Thọ Quảng Ninh Sơn La Thái Bình Thái Nguyên Tuyên Quang Vĩnh Phúc Yên Bái

Video